Bạn không có sản phẩm nào trong giỏ hàng của bạn.
Fingerstyle là gì - Những khái niệm cơ bản.
Nguồn: wikipedia
Fingerstyle guitar là kỹ thuật chơi guitar bằng cách gảy các dây trực tiếp bằng các ngón tay, móng tay, hoặc picks gắn vào ngón tay, trái ngược với flatpicking (gảy những note riêng lẻ bằng pick) hay rải 1 chuỗi các chord. Thuật ngữ này thường được sử dụng đồng nghĩa với fingerpicking (mặc dù fingerpicking cũng có thể tham khảo một số phong cách cụ thể, được viết dưới đây). Âm nhạc fingerstyle chơi có thể bao gồm chords, hợp âm rải và các yếu tố khác như sự hòa âm nhân tạo, harm và kéo, sử dụng cơ thể của guitar precussively, và rất nhiều những kĩ thuật khác.
FS là kĩ thuật:
Bởi vì các note đc chơi bằng những ngón tay riêng lẻ chứ không phải là bàn tay làm việc như một đơn vị duy nhất, cho phép người chơi fingerstyle guitar có thể thực hiện một số yếu tố âm nhạc cùng một lúc. Một định nghĩa của kỹ thuật này đã được đưa ra bởi Hiệp hội Fingerstyle Guitar Toronto (Canada) .:rabbit (24):
Về vật lí, fingertyle dùng để chỉ việc sử dụng mỗi của các ngón tay bàn tay phải một cách độc lập để chơi nhiều track của bản nhạc mà bình thường được chơi bởi nhiều thành viên trong band. Bass, harm hài hòa, giai điệu, và tất cả các bộ gõ có thể chơi đồng thời khi chơi Fingerstyle.
FS dây sắt
Fingerpicking
Fingerpicking (hay còn gọi là gảy bằng ngón cái, xen bass) là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả cả một phong cách chơi và một thể loại âm nhạc. Nó thuộc FS bởi nó đc búng harm bởi những ngón tay, nhưng nó thường được dùng để chơi một loại hình cụ thể của dân gian, nhạc jazz hoặc blues.
Trong kỹ thuật này, ngón cái duy trì một nhịp điệu ổn định, thường là xen bass bằng 3 dây 4,5,6, trong khi ngón trỏ, ngón giữa và áp úp gảy giai điệu và chơi những note cao.
Phong cách có nguồn gốc ở cuối những năm 1800 và đầu những năm 1900, khi 1 guitarist Mĩ la-tinh thử bắt chước nhạc ragtime piano, vốn phổ biến ở thời kì đó. Với ngón tay cái có chức năng như tay trái nghệ sĩ dương cầm, và các ngón tay khác hoạt động như bàn tay phải.
Một số bản được rec đầu tiên được thực hiện bởi Blind Blake, Big Bill Broonzy, Memphis Minnie và Mississippi John Hurt. Một số người chơi nhạc blues thưở đầu như Blind Willie Johnson và Tampa Red thêm vào kĩ thuật slide. Fingerpicking nhanh chóng được phổ biến trong quốc gia và các nghệ sĩ phương Tây như Sam McGee, Ike Everly (cha của The Everly Brothers), Merle Travis và "Thumb" Carllile. Sau đó Chet Atkins phát triển thêm các phong cách.
Hầu hết các người chơi finger sử dụng guitar acoustic, nhưng một số người, trong đó có Merle Travis thường chơi trên “hollow-body electrics”
Travis picking
Phong cách này thường được chơi trên guitar acoustic dây thép. Mẫu là sự sử dụng của các nhịp được đặt sẵn của tay phải trong khi chơi, với tay cái bấm các chord .
Các mô hình phổ biến nhất, đôi khi phổ biến là Travis picking sau Merle Travis, và phổ biến rộng rãi bởi Chet Atkins, Marcel Dadi và Tommy Emmanuel.
Ngón cái xen vào note bass, trong khi ngón trỏ và ngón giữa luân phiên chơi những âm cao. Mô hình này được sử dụng ngày càng nhiều bằng hợp âm C cùng với các kí hiệu, tab.:rabbit (14):
Các kiểu chơi của Travis ngày một thêm phức tạp, và không bị giới hạn bởi các mẫu đơn giản. Ông nhắc đến phong cách chơi của mình là “thumb pick” , có lẽ vì sự lựa chọn duy nhất ông ta sử dụng khi chơi là banjo thumb pick.
American Pritimitive guitar (Guitar châu mĩ nguyên thủy)
American Pritimitive guitar là một thể loại thuộc fs. Nó có nguồn gốc với John Fahey, mà bản ghi âm từ cuối những năm 1950 đến giữa thập niên 1960 lấy cảm hứng guitar nhiều như Leo Kottke, những người thực hiện ghi âm đầu tay của 6 và 12 String Guitar trên nhãn Takoma Fahey của năm 1969. American Pritimitive guitar được đặc trưng bởi việc sử dụng âm nhạc dân gian với alternating-bass fingerpicking và việc sử dụng tunings như mở D, mở G, thả D và mở C.
Ragtime guitar
Như đã đề cập ở trên, có lẽ fingerpicking ban đầu lấy cảm hứng từ Ragtime piano. Một nghệ sĩ của Ragtime là Blind Blake, một nghệ sĩ ghi âm phổ biến của cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1930.
Trong thập niên 1960, một thế hệ mới của guitar bắt đầu, sao chép lại giai điệu của piano cho guitar. Một trong những người hiểu biết và tài năng nhất là Dave Van Ronk- người chuyển thể St Louis Smile cho guitar solo. Năm 1971, David Laibman và Eric Schoenberg chuyển thể và ghi âm Scott Joplin rags và chuyển thể một số bản piano phức tạp cho LP The New Ragtime guitar trên Folkways Records. Tiếp theo đó là cuốn sách phương pháp Stefan Grossman. Một năm sau đó Grossman và ED Denson thành lập Kicking Mule Records- một công ty ghi âm những bản nhạc ragtime solo guitar bởi những nghệ sĩ trong đó có Grossman, Ton van Bergeyk, Leo Wijnkamp, Duck Baker, Peter Finger, Lasse Johansson and Dale Miller. Một trong những nghệ sĩ ragtime ngày nay là Craig Ventresco, người được biết tới bởi các bản soundtrack trong phim Terry Zwigoff.
New age Fingerstyle
Năm 1976, William Ackerman bắt đầu ghi âm Windham Hill, mà bản gốc là ở trên guitar sô dây sắt. Tuy nhiên, thay vì style folk và blue của Takoma, bao gồm guitar Fahey nguyên thủy của Mỹ, những nghệ sĩ new age loại bỏ các âm bass đơn điệu và kỹ thuật flamenco Percussive. Nhạc được sử dụng rộng rãi của nó như là nền âm nhạc tại nhà sách, spa và các doanh nghiệp.
Folk baroque
Một phong cách riêng biệt nổi lên ở Anh trong đầu những năm 1960, trong đó kết hợp các yếu tố của dân gian người Mỹ, blues, jazz và Ragtime với âm nhạc truyền thống của Anh, đã trở thành “folk baroque”. Đi tiên phong bởi các nhạc sĩ thời phục hưng dân ca lần thứ hai của Anh những năm 1950 và sau này thường được sử dụng nhạc blues người Mỹ, dân gian và phong cách nhạc jazz, thỉnh thoảng sử dụng mở D và G tunings. Tuy nhiên, một số người biểu diễn như Davy Graham và Martin Carthy đã cố gắng áp dụng các phong cách để chơi âm nhạc truyền thống phương thức tiếng Anh. Một số người theo nó như nghệ sĩ Bert Jansch và John Renbourn, đã được xác định thêm phong cách. Các phong cách này được phát triển và đặc biệt đáng chú ý khi làm theo phương thức D-A-D-G-A-D, là một hình thức thả D (drop D), được dùng làm cơ sở. Nó được kết hợp với Travis picking và tập trung vào một giai điệu như một phần nhạc đệm. Phong cách này được phát triển thêm bởi Jansch, người mang một phong cách mạnh mẽ hơn, ảnh hưởng từ nhạc Jazz và Ragtime, thêm bassling phức tạp.
Trong đầu những năm 1970 thế hệ kế tiếp của các nghệ sĩ Anh đã thêm tuning và các kĩ thuật, phản ánh trong các công việc của các nghệ sĩ như Nick Drake, Tim Buckley và đặc biệt là John Martyn.
Slack-key guitar
Slack-key guitar là một phong cách fingerpicked có nguồn gốc ở Hawaii. Thuật ngữ tiếng Anh là nghĩa dịch của kī hō‘alu, nghĩa là nới lỏng khóa (loosen the tuning key). Slack key gần như là luôn chơi trong tunings mở hoặc bị thay đổi - chỉnh phổ biến nhất là G-major (DGDGBD), cũng như tunings được thiết kế để có được hiệu ứng đặc biệt.
Phong cách cơ bản của slack-key, thiết lập một mô hình trầm xen kẽ với ngón cái và hòa với dòng giai điệu của các ngón tay trên dây cao hơn.
Thế hệ cũ của slack-key bao gồm Pahinui, Leonard Kwan, Sonny Chillingworth và Raymond Kane. Người chơi nổi tiếng đương đại bao gồm Keola Beamer, Moses Kahumoku, Ledward Kaapana, Dennis Kamakahi, John Keawe, Ozzie Kotani và Peter Moon và Cyril Pahinui.
Precussive fingerstyle
"Percussive picking"là một thuật ngữ mới nổi cho một phong cách kết hợp các hành động lên dây, cũng như gõ trên dây tạo hiệu ứng precussive. Flamenco guitar đã được sử dụng các kỹ thuật này trong nhiều năm qua nhưng sự cứng của dây thép đã gây khó khăn trong fingerstyle cho đến khi việc sử dụng các pickups trên acoustic guitar đã trở thành phổ biến trong đầu thập niên 1970. Michael Hedges bắt đầu sử dụng các kỹ thuật Percussive đầu những năm 1980. Fingerstylists Percussive hiện tại bao gồm Tommy Emmanuel, Preston Reed, Kaki King, Justin King, Erik Mongrain, Phil Keaggy, Thomas Leeb, Jon Gomm, Eric Roche, Doyle đê điều, Michael Gulezian, Don Ross, Andy McKee, Antoine Dufour, Craig D'Andrea , Newton Faulkner, Kotaro Oshio and me .
Dây nilon
Classical guitar fingerstyle
Một loạt các phong cách âm nhạc có thể chơi trên đàn guitar cổ điển. Các tính năng chính của kỹ thuật cổ điển fingerstyle là chơi solo đa âm một cách hài hòa, tương tự như piano. Ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón đeo nhẫn đều dùng để chơi nhạc, kéo, harm… Chords thường được ngắt, với âm trống được nhấn mạnh. Guitar cổ điển có ưu thế trong màn trình diễn và cho phép một mức độ cao về kiểm soát các yếu tố âm nhạc, kết cấu. Các màn trình diễn rất khác nhau về các phím, các chế độ, nhịp điệu và ảnh hưởng văn hóa. Tunings ít khi được dùng, ngoại trừ Drop D.
Flamenco guitar fingerstyle
Kỹ thuật flamenco liên quan đến kỹ thuật cổ điển, nhưng với sự nhấn mạnh hơn vào nhịp điệu, âm lượng và giai điệu. Những nghệ sĩ flamenco thường thích các key như A, E, và do đó dẫn đến viejc sử dụng các tuning mở, và capo là cần thiết. Họ thường xuyên tăng cường móng tay nhân tạo của họ.
Một số chuyên ngành kỹ thuật bao gồm:
Picado: nhấn mạnh vào tác động lên dây đàn và phát âm.
Rasgueado: Strumming thường được thực hiện bởi tất cả các ngón tay và sau đó flicking (kéo) ra để tạo 4 âm strums chồng.
Alzapua: Một kỹ thuật của ngón cái có nguồn gốc trong kỹ thuật Plectrum oud. Các ngón tay phải được sử dụng cho cả hai dòng ghi chú và strummed qua một số chuỗi. Cả hai đều được kết hợp trong kế nhanh chóng để cho nó một âm thanh duy nhất.
Tremolo: được làm có phần khác nhau từ tiếng vê ghi-ta cổ điển truyền thống, nó thông thường được chơi với mẫu bàn tay đúng: p-i-a-m-i
Electric fingerstyle:
Fingerstyle jazz guitar
Fs jazz thường chơi ở hợp âm-giai điệu theo 1 phong cách, nơi mà những tay guitar chơi một loạt các chords với dòng giai điệu trên đầu trang. Fingerstyle, plectrum, or hybrid picking là những phong cách dùng cho fs jazz.
Jazz fingerstyle, mà không cần sử dụng một Plectrum, ngày nay đc dùng thường xuyên bởi người chơi như Eddie Lang (1902-1933) và Carl Kress (1907-1965), nhưng phong cách không thực sự phát triển đầy đủ trước khi phát minh ra guitar điện. George Van Eps (1913-1998) được tôn kính cho guitar đa âm solo của mình chơi.
Một nhạc sĩ chơi nhạc jazz nổi bật của ngón tay guitar hiện đại là Wes Montgomery (1925-1968). Ông được biết đến với cách sử dụng phần thịt của ngón tay cái của mình để cung cấp các dòng bass trong khi strumming động cơ chordal hoặc du dương với ngón tay của mình. Phong cách này, trong khi không chính thống, được rộng rãi coi là một phương pháp sáng tạo để nâng cao giai điệu ấm áp kết hợp với guitar nhạc jazz.
Không có kỹ thuật chung của nhạc jazz fingerstyle, nhưng ngươi chơi chung nên tránh sử dụng capos và tunings thay đổi.
Solid-body electric guitar
solid-body electric guitar hiếm khi chơi fingerstyle, mặc dù không có những kỹ thuật khó.
Giao lưu với ad tại: https://www.facebook.com/guitarsollee/